Năm
2001 khi bất ngờ bị bắt vào nửa đêm và bị nhốt vào phòng biệt giam; sau
một thời gian bị nhốt trong bóng đen không ánh sáng mặt trời, thiếu
thốn không khí, vắng bóng người thân, bị
cơn đói dày vò, tôi dần dần cảm thấu thân phận và nỗi đau của kiếp tù
nhân. Nỗi đau khó tả nên lời, nhưng nó hiện diện thật và rất đau.
Bị
biệt giam làm tôi nhớ nhung ray rứt người thân và bạn hữu. Nỗi nhớ lên
đến mức tôi khao khát được nghe tiếng người dù chỉ để nghe một giọng nói
cũng thấy được ấm lòng. Nỗi đau quặn xé khi những tiếng khóc
của các tù nhân giữa đêm đâu đó vọng lại, của những tiếng rên than thở
đau xót cho một phận người trớ trêu. Vâng, những tiếng người này không
đẹp, không êm tai, không xoa dịu được nỗi nhớ nhung của người tù, nhưng
chúng vẫn là tiếng người. Chúng giúp tôi thấu chạm sự hiện diện của đồng
loại trong cảnh ngục nát tang thương.
Trong
phòng biệt giam của ngục tù. Tôi không có khả năng để tự mở cửa ra khỏi
phòng. Cửa phòng chỉ được mở khi ai đó mở cho tôi. Tôi không được quyền
đi ra khỏi “cái hộp” ấy như tôi muốn. Tôi không được hưởng không khí
trong lành tự do; tôi chỉ được cho ăn và uống theo quy định của trại tù;
tôi không được kêu gào la hét. Nếu tôi có khóc, thì cũng chỉ được phép
khóc thầm cho một mình tôi nghe, vì lớn tiếng là vi phạm nội quy. Tôi
không được phép giữ giấy viết trong phòng; nếu tôi viết điều gì thì tôi
chỉ được viết theo ý của quản giáo mà thôi. Nói tóm lại, trong ngục tù,
tôi bị mất tự do hoàn toàn. Đúng như người quản giáo
thẳng thắn nhận định: “Từ nay trở đi, mày chỉ là thằng tù, mất quyền
công dân; tên mày sẽ được thay bằng mấy con số!”
Trong
tù, dù tôi có yêu và nhớ nhung ai đến đâu đi chăng nữa, tôi cũng không
thể gặp họ và biểu lộ tình
cảm của tôi cho họ. Dù tôi có những kế hoạch và sáng kiến vĩ đại đến
đâu đi chăng nữa, tôi cũng chẳng làm được gì ngoài chuyện ngồi bó gối
hằng ngày nhìn ước mơ và hoài bão đời mình đang chết dần mòn theo năm
tháng. Ở trong tù, dù tôi có muốn làm mới lại cuộc đời, thay đổi con
người cũ thành con người mới, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm, khắc phục
những hậu quả do mình gây ra… nhưng cũng không thể làm được, vì giá cho
sự sai phạm là ngục tù; và chẳng ai tin vào thằng tù cả. Ở trong tù,
qua khe cửa tôi lén nhìn ra thế giới tự do làm tim tan nát, đớn đau;
thấy bóng một ai đó lướt qua làm lòng tôi đen lại cho tương lai mịt mù.
Có những ngày cơn đói hành hạ làm cho tôi khao khát được một nắm cơm, củ
khoai, củ sắn mà cũng vô
vọng. Có những lúc quá ngột ngạt, tôi phải rón rén cúi mình xuống khe
cửa để hít thở không khí trong lành bên ngoài thế giới tự do.
Tù
nhân là như thế đó. Mở cửa cho ra thì ra, cho tắm thì tắm, cho đi đổ
rác thì đổ, biểu đi thì đi, biểu đứng thì đứng, biểu nói thì nói, biểu
im thì phải im, biểu viết thì viết. Tù nhân phải mang áo mà mình không
ưa, phải đi
chân trần, phải nằm đúng chỗ quy định. Sống trong tù ngục là như vậy
đó. Mất hết tất cả, mất đi cả những nhu cầu cơ bản nhất của con người:
Muốn nghe mà không được nghe, muốn nói mà không được nói, muốn nhìn mà
cũng không được nhìn.
Cám ơn Chúa đã đồng hành với tôi
qua những năm tháng biệt giam cô đơn đen tối với ngập tràn ân sủng tình
yêu. Nhờ kinh nghiệm tù đày nhỏ bé trên, tôi hiểu rõ hơn một chút về
tội. Tội làm cho tôi bị giam vào ngục tù. Vì bị giam trong ngục tội, tôi
bị cách xa Thiên Chúa, gia đình, người thân và bạn hữu. Khi tôi phạm
tội và còn ở trong tình trạng tội, tôi không thể tự giải thoát tôi. Tôi
không thể “tự” mở cửa phòng để ra đi hưởng sự tự do an bình. Đang trong
tình trạng tội, những ấp ủ yêu thương người thân, bạn hữu chỉ vẫn là
trên bình diện lý thuyết vì trong tình trạng trong ngục tội, tôi bị cách
ly và không có khả năng để giao tiếp. Tội cách ly tôi khỏi những khả
năng mà tôi vốn sở hữu: tư do, hạnh phúc, bình an. Tội
làm tôi không thấy và chiêm ngưỡng vẻ đẹp diệu kỳ của thiên nhiên vạn
vật; tội làm tôi không thể hít thở không khí trong lành tự do; tội làm
tôi đói khát lương thực và ngăn cản tôi đón nhận Thánh Thể. Nói tóm lại,
tội làm tôi mất tất cả: Có nghe Lời Chúa thì cũng không hiểu; có nói
lên điều gì cũng không có sinh khí của chứng nhân; và có nhìn cũng không
thấy tình yêu hiến thân của Thiên Chúa và vũ trụ diệu kỳ do Ngài tạo
dựng.
Bất
cứ một tù nhân nào cũng khao khát được tự do, ra khỏi chốn lao tù càng
sớm càng tốt. Những khao khát ước mơ này được diễn tả qua ba hình thức
sau. Hy vọng mong manh là được các “ông lớn” nhìn đến và xét duyệt cho
được “ân xá” vào các dịp lễ lớn. Hy hữu hơn nữa là được một “ai đó” can
thiệp trực tiếp để mình được ra về sớm hơn thời hạn. Cuối cùng, dù hầu
như không có thật, nhưng người tù “mơ” rằng ai đó tình nguyện ở tù thay
cho mình. Với ba ước mơ “bồng bột” trên, dù không thể xảy ra và không
bao giờ xảy ra, nhưng người tù vẫn bám vào những ước mơ, hy vọng. Hy
vọng vào điều không thể hy vọng là chỗ đó. Chính những hy vọng “bồng
bột” này giúp cho người tù sống sót. Không có hy
vọng, con người sẽ chết trong sự tuyệt vọng.
Khi
tôi phạm tội, tôi phải trả giá cho tội lỗi của tôi. Khi tôi lỗi đức
công bình, tôi phải đền trả sòng phẳng. Khi tôi xúc phạm đến ai bằng lời
nói, tôi phải nói lời xin lỗi. Nhưng khi tôi xúc phạm đến Thiên Chúa,
liệu có hình phạt nào tương xứng dành cho tôi để
đền tội? Trong đời sống xã hội, thật là phúc cho tôi nếu có ai đó giúp
tôi ra khỏi tù trong trường hợp một và hai, khi ấy tôi sẽ mang ơn họ
trong suốt cuộc đời này. Xét về trường hợp thứ ba, liệu trong đời này có
ai dám ở tù thay cho tôi? Cha mẹ, anh chị, người yêu? Không ai, và thực
tế cũng không ai tình nguyện ở tù thay cho tôi, dù người ấy có yêu tôi
đến mức nào đi chăng nữa! Vậy mà Thiên Chúa lại chọn giải pháp thứ ba để
giải thoát cho tôi khỏi ngục tù của ma quỷ. Ngài không cần chờ đợi dịp
“lễ lớn” để ban ơn ân xá cho tôi; Ngài cũng không nhờ “ông lớn” nào đó
để can thiệp cho tôi ra khỏi tù sớm hơn thời hạn. Nhưng Ngài lại sai Con
Một của Ngài để ở tù thay cho tôi và sẵn sàng chịu án tử - giá phải trả
của riêng tôi.
Thực vậy, chuyện ở tù thay nhưng không này chỉ có Đức Kitô mới làm được
mà thôi. Ngài chấp nhận ở tù thay để cho tôi được tự do; Ngài chấp nhận
gánh lấy tội của tôi để tôi được hưởng ơn tha thứ; Ngài chấp nhận bị
biệt giam cho tôi để tôi được tự do làm con Chúa; Ngài chấp nhận chết
khô héo trên thập giá để tôi được sống đời sống mới vĩnh cửu trong Nước
Trời. Chính trong bối cảnh tù đày, tôi hiểu rõ hơn về ý nghĩa trọn vẹn
của sự Phục Sinh – đó chính là niềm vui vô bờ của sự tự do; của một tù
nhân được giải thoát. Chính sự “ở tù thay này” mà mọi thua thiệt, bất
công, đen tối, đói khát, cô đơn, sợ hãi, tương lai vô định mà tôi đã
trải nghiệm trong tù đày, từ đây Đức Kitô sẽ gánh lấy tất cả. Bản án
của tôi khoảng 20 năm, chung thân, hoặc tử hình, nhưng Ngài lại gánh
lấy án tử hình cho tôi một cách nhưng không. Ôi, có tình yêu nào cao quý
hơn tình yêu này!!!
“Đức
Kitô đã chết cho tôi, ngay khi tôi còn là tội nhân” (Rm 5:8). Vậy còn
ngần ngại gì nữa mà không bước ra “cái hộp đen tội” ấy, mà không hưởng
sự tự do, mà không đón nhận Lương Thực hằng sống? Còn ngần ngại gì mà
không hít thở ân sủng tình
yêu, mà không sống lại phẩm giá làm con? Vâng! Tại tòa giải tội Ngài sẽ
mở cửa để tự nhốt Ngài vào “chiếc hộp” thay ta, còn ta được bước ra
khỏi “chiếc hộp đen” ấy. Tội lỗi giam ta vào ngục tối, còn tình yêu đưa
ta vào sự sáng! Ôi, Tình Yêu diệu vợi!
Br. Huynhquảng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét