Tháng trước, Đức Phanxicô tuyên bố sẽ triệu tập một Thượng
Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình trong các ngày 5-18 tháng Mười, năm 2014 với
chủ đề “Các Thách Đố Mục Vụ Của Gia Đình Trong Bối Cảnh Tân Phúc Âm Hóa”.
Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một buổi họp báo đã được tổ chức tại Phòng Báo
Chí của Tòa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức TGMLorenzo Baldisseri, Tổng
Thư Ký của THĐ, cho hay: để chuẩn bị cho THĐ vào năm tới, cuộc họp lần thứ
năm của Hội Đồng THĐ Thường Lệ đã diễn ra trong các ngày 7-8 tháng Mười vừa
qua để đưa ra Tài Liệu Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một trình bày tổng quát
về chủ đề, các trích dẫn thánh kinh và huấn quyền về chủ đề, và một bản câu
hỏi về các thách đố chính của gia đình hiện đại. Sau đây là nguyên văn Tài
Liệu Chuẩn Bị.
I. Thượng Hội Đồng: Gia Đình và Việc Phúc Âm Hóa
Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, được Chúa trực tiếp ủy thác cho các
môn đệ của Người, vẫn tiếp diễn trong Giáo Hội trong suốt giòng lịch sử. Cuộc
khủng hoảng xã hội và tâm linh, hết sức hiển nhiên trong thế giới ngày nay,
đang trở thành một thách đố mục vụ trong sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội
liên quan tới gia đình, vốn là viên đá sinh tử xây dựng nên xã hội và cộng
đồng Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc công bố Tin Mừng về gia đình
trong bối cảnh này đã khẩn trương và cần thiết hơn. Sự quan trọng của chủ đề
này được phản ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập một THĐ Giám
Mục; THĐ này sẽ là một hành trình gồm hai giai đoạn: đầu tiên, một Phiên
Khoáng Đại Đặc Biệt trong năm 2014, nhằm xác định “status quaestionis” (tình
huống của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và đề nghị của các giám mục trong
việc công bố và sống thực Tin Mừng Gia Đình một cách khả tín; thứ hai, một
Phiên Khoáng Đại Thường Lệ trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ dẫn có thể áp
dụng được trong lãnh vực chăm sóc mục vụ cho các con người và gia đình.
Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những năm gần đây nay đã xuất hiện do
hậu quả của nhiều tình huống khác nhau, từ tập tục sống chung khá phổ biến mà
không dẫn tới hôn nhân, đôi khi còn loại bỏ cả ý niệm hôn nhân nữa, cho tới
các cuộc kết hợp đồng tính giữa những người thường được phép nhận con nuôi. Các tình
huống mới đòi Giáo Hội phải chú tâm và chăm sóc mục vụ là những tình huống
này: các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia đình có cha hoặc mẹ đơn lẻ;
đa thê; hôn nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi môn đôi khi bị hiểu như
giá mua người đàn bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi cam kết và giả
thiết rằng dây hôn phối chỉ có tính tạm thời; các hình thức duy nữ phản Giáo
Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với chính ý niệm gia đình; chủ
nghĩa đa nguyên duy tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng truyền
thông đối với nền văn hóa bình dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống gia
đình; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ
giá ý niệm vĩnh viễn và lòng trung thành của giao ước hôn nhân; gia tăng tập
tục làm mẹ mướn (surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích
mới lạ về điều được coi là nhân quyền. Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu
cho thấy đức tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh hàn gắn của Bí
Tích Sám Hối càng ngày càng yếu đi hoặc hoàn toàn bị loại bỏ.
Thành thử, ta hiểu được tính khẩn trương của việc mời gọi hàng giám mục thế
giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới quyền Phêrô) để bàn thảo các
thách đố này. Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do tình huống hiện nay, rất
nhiều trẻ em và người trẻ sẽ không bao giờ được thấy cha mẹ chúng lãnh nhận
các bí tích, là đủ để ta hiểu các thách đố đối với việc phúc âm hóa do tình
huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế nào; ta có thể nhận thấy những
thách đố này ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với thực trạng này,
ta thấy đại đa số hiện nay chấp nhận giáo huấn lòng thương xót Chúa và sự
quan tâm đối với người đau khổ, đang đứng bền lề xã hội, cả theo nghĩa địa dư
lẫn nghĩa hiện sinh. Thành thử, đại đa số đang mong chờ các quyết định mục vụ
sẽ được đưa ra liên quan tới gia đình. Ngoài tính cần thiết và khẩn trương
ra, sự suy tư về các vấn đề này của THĐ Giám Mục còn được coi như một bổn
phận đức bác ái đối với những ai được trao phó cho các giám mục coi sóc và
đối với toàn thể gia đình nhân loại.
II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đình
Tin vui tình thương Thiên Chúa phải được công bố cho mọi người đang đích thân
sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng là lứa đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân
con cái, tức cộng đồng gia đình. Các giáo huấn đức tin về gia đình phải được
trình bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để chúng tới được các tâm hồn
và biến đổi chúng theo thánh ý Thiên Chúa, một thánh ý vốn được tỏ lộ nơi
Chúa Giêsu Kitô.
Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn nhân và gia đình, tài liệu này chỉ
trích dẫn các tham chiếu chủ yếu. Điều này cũng đúng đối với việc trích dẫn
Huấn Quyền: chỉ trích dẫn các điều có tính phổ quát, trong đó có thêm một số
bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình. Các giám mục tham dự THĐ được tự
do trích dẫn các tài liệu từ các hội đồng giám mục của các ngài.
Ở mọi thời và trong nhiều nền văn hóa khác nhau, không thiếu giáo huấn rõ
ràng của các mục tử cũng như các chứng từ cụ thể của tín hữu nam nữ, những
người bất chấp các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống Tin Mừng Gia Đình như
một hồng phúc khôn sánh đối với đời họ và con cái họ. Cam kết của THĐ Đặc
Biệt sắp tới được gợi hứng và nâng đỡ bởi ý muốn thông truyền sứ điệp này một
cách mạnh mẽ hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải, vốn được ủy thác cho Giáo
Hội, mỗi ngày mỗi tràn ngập tâm hồn từng người hơn” (Dei Verbum, số 26).
Kế hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc
Vẻ đẹp của sứ điệp Thánh Kinh về gia đình bắt nguồn từ việc dựng nên người
đàn ông và người đàn bà, cả hai giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St
1:24-31; 2:4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi dây bí tích bất khả tiêu,
những người kết hôn cảm nghiệm được cái đẹp của tình yêu, tình cha, tình mẹ,
và phẩm giá tối cao của việc nhờ cách này, được tham dự vào công trình sáng
tạo của Thiên Chúa.
Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc kết hợp của mình, họ đảm nhận trách
nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục những con người khác cho tương lai nhân loại.
Nhờ việc sinh sản, người đàn ông và người đàn bà chu toàn trong đức tin ơn
gọi trở thành người cộng tác của Thiên Chúa trong việc bảo vệ sáng thế và
phát triển gia đình nhân loại.
Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định về khía cạnh này trong Familiaris
consortio như sau: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh và
họa ảnh Người (xem St 1:26,27), khi mời gọi họ bước vào hiện hữu qua ngả yêu
thương, Người cũng đồng thời kêu gọi họ hướng về yêu thương. Thiên Chúa là
yêu thương (xem Ga 1Ga 4:8) và chính nơi Người, Người vẫn sống mầu nhiệm hiệp
thông yêu thương đầy tính bản vị. Khi tạo nên nhân loại giống hình ảnh Người
và liên tục duy trì họ hiện hữu, Thiên Chúa đã ghi khắc nơi nhân tính người
đàn ông và người đàn bà ơn gọi, và do đó khả năng và trách nhiệm, yêu thương
và hiệp thông (Gaudium et spes, số 12). Do đó, yêu thương là ơn gọi
nền tảng và bẩm sinh của mọi con người nhân bản” (FC, số 11).
Kế hoạch của Thiên Chúa Hoá Công, một kế hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại
(xem St 3:1-24), đã tự vén mở qua giòng lịch sử trong các biến cố của dân
riêng cho tới tận thời viên mãn, lúc, với cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa,
không những ý muốn cứu vớt của Thiên Chúa được xác nhận, mà cả ơn cứu chuộc
đem lại ơn thánh theo thánh ý này nữa.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm (xem Ga 1:14) trong cung lòng Mẹ Đồng
Trinh, đã sống và lớn lên trong gia đình Nadarét và tham dự tiệc cưới tại
Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của lễ hội bằng “dấu lạ” đầu tiên
(xem Ga 2:1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh việc tiếp rước Người trong
gia đình các môn đệ Người (xem Mc 1:29-31; 2:13-17) và an ủi gia đình bằng
hữu của Người đang gặp tang chế tại Bêtania (xem Mc 10:38-42; Ga 11:1-44).
Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ đẹp của hôn nhân, vì một lần nữa, Người đề xuất
kế hoạch của Thiên Chúa từng bị bỏ ngang vì sự cứng lòng của trái tim con
người, ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5:31-32; 19:3-12; Mc
10:1-12; Lc 16:18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu dạy ta sự đơn nhất và
lòng trung thành của vợ chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại tình.
Chính qua vẻ đẹp phi thường của tình yêu nhân bản, vốn được đề cao bằng âm
sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối do các tiên tri như Hôxêa (xem
Hs 1:2; 3:3) và Malaki (xem Ml 2:13-16) kêu gọi và bảo vệ, Chúa Giêsu đã xác
quyết phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân nơi người đàn ông và người
đàn bà.
Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình
Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi, gia đình đã xuất hiện như một “Giáo
Hội tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1655): Trong
các điều gọi là “qui luật về gia đình” (family canons) của các tông thư Tân
Ước, gia đình trong thế giới cổ thời được nhận diện như là nơi diễn ra sự
liên đới sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, và giữa người giầu
và người nghèo (xem Eph 5:21-6:9; Cl 3:18-4:1; 1Tm 2:8-15; Tt 2:1-10; 1Pr
2:13-3:7; xem thêm Thư Philêmôn). Cách riêng, Thư Êphêsô nhìn nhận tình yêu
phu thê giữa một người đàn ông và một người đàn bà là “một mầu nhiệm lớn”, vì
đã biến tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện thực
(xem Eph 5:31-32).
Trong nhiều thế kỷ, nhất là từ thời cận đại cho tới nay, Giáo Hội đã đưa ra
một giáo huấn liên tục và tiệm tiến về gia đình và hôn nhân là định chế vốn
làm nền cho nó. Một trong các phát biểu đáng lưu ý nhất đã được Công Đồng
Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục VụGaudium et spes; hiến chế này,
khi bàn tới một số vấn đề khẩn trương, đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm
giá hôn nhân và gia đình, như được thấy trong đoạn mô tả các giá trị của
chúng đối với việc tạo lập xã hội: “gia đình, nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ
giúp nhau đạt được sự khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp được các quyền lợi
bản thân với các đòi hỏi khác của đời sống xã hội, đã tạo nên nền tảng cho xã
hội” (GS, số 52).
Điều đặc biệt đáng lưu ý là lời kêu gọi của nó đối với một nền linh đạo lấy
Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức tin của vợ chồng: “Được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng phẩm giá nhân vị chân chính, vợ
chồng hãy kết hợp với nhau trong cùng một tình âu yếm, trong cùng một tư duy
và trong cùng một sự thánh thiện hỗ tương, ngõ hầu, theo gương Chúa Kitô,
Đấng vốn là nguyên lý của sự sống, vợ chồng có thể nhờ các hân hoan và hy
sinh trong ơn gọi của mình, nhờ lòng trung tín trong tình yêu của mình, mà
trở nên các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà Chúa đã tỏ lộ cho thế giới
qua cái chết và sự sống lại của Người” (GS, số 52).
Sau Công Đồng Vatican II, các vị kế nhiệm Thánh Phêrô cũng đã dùng huấn quyền
của các ngài mà phong phú hóa giáo huấn về hôn nhân và gia đình, nhất là Đức
GH Phaolô VI với thông điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra
các giáo huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn hướng dẫn. Sau đó, trong Tông
Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn nhấn mạnh
tới việc đề xuất kế hoạch Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về nguồn gốc
tình yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc tự
hiến theo nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành khả hữu chính là hôn nhân, tức
giao ước tình yêu hay sự lựa chọn có ý thức và tự do qua đó, người đàn ông và
người đàn bà chấp nhận cộng đồng sự sống và tình yêu đầy thân ái, vốn được
chính Thiên Chúa mong muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng chỉ biểu lộ được ý
nghĩa chân thực của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế hôn nhân không
phải là một can thiệp không nên có của xã hội hay của một thẩm quyền nào đó,
cũng không phải là việc áp đặt một hình thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là
một đòi hỏi nội tại của giao ước yêu thương phu phụ, một giao ước được công
khai xác nhận là duy nhất và độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối trung thành
với nhau theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa Công. Tự do bản vị, thay vì bị lòng
trung thành này giới hạn, thực ra đã được che chở khỏi mọi hình thức duy chủ
quan hay duy tương đối, để trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan sáng
thế” (FC 11).
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo đã gom lại một nơi các khía cạnh căn bản
của giáo huấn này: “Giao ước hôn nhân, qua đó, một người đàn ông và một người
đàn bà thành lập với nhau một cộng đồng thân mật sống và yêu thương nhau, đã
được Đấng Tạo Hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng biệt. Do chính bản
chất của nó, giao ước này được sắp đặt cho thiện ích của vợ chồng, cũng như
việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa những
người đã rửa tội lên hàng một bí tích” [xem Công Đồng Vatican II,Gaudium
et spes, số 48; Bộ Giáo Luật, số 1055,1]” (Sách GLCGHCG,
1660).
Học lý trình bày trong Sách Giáo Lý này xem sét cả các nguyên tắc thần học
lẫn các tác phong luân lý, được khai triển dưới hai đầu đề riêng biệt: Bí
Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và Điều Răn Thứ Sáu (các số 2331-2391). Đọc
cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lý, ta sẽ có được một cái hiểu cập nhật
về học thuyết của đức tin, để hỗ trợ hành động của Giáo Hội trước các thách
đố hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội được gợi hứng từ sự thật về hôn
nhân, một sự thật được xem sét dưới ánh sáng kế sách Thiên Chúa, Đấng đã tạo
nên người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng, vào thời viên mãn, đã mạc khải
nơi Chúa Giêsu tính tròn đầy của tình yêu vợ chồng, lúc được nâng lên hàng bí
tích. Đặt cơ cở trên sự ưng thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban cho nhiều
hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ chồng. Nhưng, hôn nhân không được miễn
nhiễm khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3:1-24), một việc có thể gây ra những vết
thương sâu xa, thậm chí còn hạ thấp cả phẩm giá của bí tích nữa.
Thông điệp mới đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh
sáng đức tin) có đề cập tới gia đình trong bối cảnh một suy tư về việc đức
tin cho ta biết “các sợi dây nối kết người ta lại với nhau bền vững ra sao
khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ” (LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên trong
đó đức tin soi sáng cho kinh thành con người là gia đình. Tôi nghĩ trước hết
và đầu hết tới sự kết hợp bền vững giữa một người đàn ông và một người đàn bà
trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ tình yêu của họ, như là dấu chỉ
và là sự hiện diện của chính tình yêu Thiên Chúa, và phát sinh từ việc nhìn
nhận và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt hóa giới tính, nhờ đó, các người
phối ngẫu có thể trở nên một thân xác (xem St 2:24), và có khả năng sinh ra
một sự sống mới, vốn là điều nói lên sự tốt lành, khôn ngoan và kế hoạch yêu
thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở trên tình yêu này, người đàn ông và người
đàn bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử chỉ vận dụng được trọn cả
đời họ và phản ảnh được nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu thương nhau
mãi mãi chỉ có thể có khi ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn chính các dự
án của ta, một kế hoạch nâng đỡ ta và giúp ta khả năng trao phó trọn tương
lai ta cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải là nơi trú ẩn của
những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức
được tiếng gọi kỳ diệu, tức lời mời gọi của tình yêu. Nó bảo đảm với ta rằng
tình yêu này đáng tin tưởng và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung
thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn sự yếu đuối của ta” (LF,
số 53).
III. Bản Câu hỏi
Các câu hỏi dưới đây cho phép các Giáo Hội đặc thù tham dự tích cực vào
việc chuẩn bị THĐ Đặc Biệt nhằm mục đích công bố Tin Mừng trong các thách đố
ngày nay liên quan tới gia đình.
1. Về việc phổ biến Sách Thánh và Huấn Quyền Giáo Hội liên quan tới gia
đình
a) Các giáo huấn của GHCG về giá trị của hôn nhân trong Thánh Kinh, trong Gaudium
et spes, Familiaris consortio và các văn kiện khác của Huấn Quyền
sau Công Đồng đã được người thời nay hiểu biết ra sao? Các tín hữu của ta đã
được dào tạo ra sao liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội về đời sống gia
đình?
b) Trong các trường hợp giáo huấn của Giáo Hội được biết đến, nó có được chấp
nhận trọn vẹn không? Hay là gặp khó khăn khi đem ra thực hành? Các khó khăn
này là các khó khăn nào?
c) Việc giáo huấn của Giáo Hội trong các chương trình mục vụ cấp quốc gia,
cấp giáo phận và cấp giáo xứ được phổ biến ra sao? Loại giáo lý nào đã được
giảng dạy về gia đình?
d) Mức độ và các khía cạnh đặc biệt nào trong việc dạy dỗ này đã thực sự được
biết đến, được chấp nhận, bị bác bỏ và/hoặc bị chỉ trích trong các môi trường
ở bên ngoài Giáo Hội? Đâu là các nhân tố văn hóa làm cản trở việc tiếp nhận
trọn vẹn giáo huấn của Giáo Hội về gia đình?
2. Về hôn nhân theo luật tự nhiên
a) Ý niệm luật tự nhiên có vị trí nào trong các môi trường văn hóa của xã
hội: trong các định chế, trong giáo dục, trong các giới học thuật và trong
dân chúng nói chung? Các ý niệm nhân học nào nằm dưới cuộc thảo luận về căn
bản tự nhiên của gia đình?
b) Ý niệm luật tự nhiên trong việc kết hợp giữa một người đàn ông và một
người đàn bà có được chấp nhận phổ quát giống như các người đã chịu phép rửa
nói chung chấp nhận hay không?
c) Trong lý thuyết và trong thực hành, luật tự nhiên trong việc kết hợp nam
nữ đã bị thách thức ra sao dưới ánh sáng tạo lập gia đình? Luật này đã được
đề xuất và đào sâu ra sao trong các định chế dân sự và Giáo Hội?
d) Trong các trường hợp người Công Giáo không giữ đạo hoặc người tự tuyên bố
vô tín ngưỡng yêu cầu cử hành hôn phối, hãy cho biết thách thức mục vụ này đã
được xử trí ra sao?
3. Chăm sóc mục vụ gia đình trong việc phúc âm hóa
a) Trong mấy thập niên gần đây, kinh nghiệm nào đã diễn ra liên quan tới việc
chuẩn bị hôn nhân? Đâu là các cố gắng nhằm kích thích trách vụ phúc âm hóa
các cặp vợ chồng và các gia đình? Làm thế nào để cổ vũ việc hiểu gia đình như
là “Giáo Hội tại gia”?
b) Qúy vị thành công ra sao khi đề xuất một cách cầu nguyện trong gia đình có
thể thắng vượt được các phức tạp của cuộc sống và nền văn hóa ngày nay?
c) Trong cuộc khủng hoảng giữa các thế hệ hiện nay, các gia đình Kitô hữu đã
thành công ra sao trong việc chu toàn ơn gọi lưu truyền đức tin của mình?
d) Làm cách nào các Giáo Hội địa phương và các phong trào về linh đạo gia
đình đã có thể tạo ra cách thế hành động gương mẫu?
e) Các cặp vợ chồng và các gia đình đã có thể đóng góp được gì trong việc
truyền bá ý niệm khả tín và có tính toàn diện về lứa đôi và gia đình Kitô
Giáo ngày nay?
f) Giáo Hội đã cung cấp loại chăm sóc mục vụ nào để nâng đỡ các cặp vợ chồng
đang thành hình và các cặp vợ chồng đang trong các tình huống khủng hoảng?
4. Chăm sóc mục vụ trong một số tình trạng khó khăn
a) Việc sống chung hay sống thử có phải là một thực tại mục vụ trong Giáo Hội
đặc thù của qúy vị không? Qúy vị có thể ước đoán phần trăm của nó không?
b) Có những cuộc kết hợp không được nhìn nhận cả về tôn giáo và dân sự hay
không? Có các số thống kê đáng tin về vấn đề này hay không?
c) Các cặp ly thân và những người ly dị và tái hôn có phải là một thực tại
mục vụ trong Giáo Hội đặc thù của qúy vị hay không? Qúy vị có thể phóng đoán
phần trăm hay không? Qúy vị xử lý ra sao các tình huống này trong các chương
trình mục vụ thích đáng?
d) Trong tất cả các trường hợp trên, người đã chịu phép rửa sống ra sao trong
hoàn cảnh bất bình thường? Họ có ý thức việc đó không? Hay họ chỉ đơn giản
dửng dưng thôi? Họ có cảm thấy bị cho ra rìa hay đau khổ vì việc không được
chịu các bí tích không?
e) Người ly dị và tái hôn đặt cho Giáo Hội những câu hỏi nào liên quan tới
các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải? Trong số những người thấy mình ở trong
tình huống này, bao nhiêu người xin được chịu các bí tích?
f ) Việc đơn giản hóa các thủ tục giáo luật nhằm nhìn nhận việc tuyên bố vô
hiệu dây hôn phối có đóng góp gì tích cực cho việc giải quyết các vấn đề của
những người liên lụy này không? Nếu có, nó sẽ mang hình thức nào?
g) Có chăng một thừa tác vụ đảm nhiệm các trường hợp này? Hãy mô tả thừa tác
mục vụ này? Có chăng các chương trình cấp quốc gia và cấp giáo phận? Lòng
thương xót của Thiên Chúa đã được công bố ra sao cho những cặp ly thân và
những người ly dị và tái hôn và Giáo Hội đã đem vào thực hành thế nào sự hỗ
trợ của mình dành cho họ trong hành trình đức tin của họ?
5. Về các cuộc kết hợp của những người đồng tính
a) Tại quốc gia của qúy vị, có luật thừa nhận các cuộc kết hợp dân sự của
những người đồng tính và đặt chúng ngang hàng với hôn nhân không?
b) Đâu là thái độ của các Giáo Hội địa phương và đặc thù đối với cả Nhà Nước
trong tư cách người cổ vũ các cuộc kết hợp dân sự giữa những người đồng tính
lẫn những người liên hệ tới loại kết hợp này?
c) Chú tâm mục vụ nào có thể dành cho những người chọn sống trong loại kết
hợp này?
d) Trong các vụ kết hợp của người đồng tính đã nhận con nuôi, ta có thể làm
gì về phương diện mục vụ liên quan tới việc lưu truyền đức tin?
6. Việc giáo dục con cái trong các cuộc hôn nhân bất bình thường
a) Đâu là tỷ lệ ước lượng con số các trẻ em và thiếu niên sống trong các
trường hợp này so với các trẻ em sinh ra và được dưỡng dục trong các gia đình
được tạo lập cách bình thường?
b) Các cha mẹ trong các tình huống này đã tiếp cận Giáo Hội ra sao? Họ yêu
cầu những gì? Họ chỉ yêu cầu chịu bí tích hay còn muốn việc dạy giáo lý và
giảng dạy tổng quát về tôn giáo nữa?
c) Các Giáo Hội đặc thù cố gắng ra sao nhằm thỏa mãn nhu cầu của các cha mẹ
các trẻ em này, khi họ muốn cung cấp nền giáo dục Kitô Giáo cho chúng?
d) Trong các trường hợp này, thực hành bí tích diễn tiến ra sao: chuẩn bị,
ban bí tích và đồng hành?
7. Vợ chồng cởi mở đối với sự sống
a) Các Kitô hữu ngày nay biết gì cụ thể về giáo huấn của Humanae
Vitae liên quan tới việc làm cha mẹ có trách nhiệm? Họ ý thức ra sao
về việc lượng giá luân lý các phương pháp khác nhau trong việc kế hoạch hóa
gia đình? Về phương diện mục vụ, qúy vị có thể nêu ra một số đào sâu nào đó
liên quan đến vấn đề này không??
b) Giáo huấn luân lý trên có được chấp nhận không? Những khía cạnh nào gây
khó khăn hơn cả cho đa số các cặp vợ chồng trong việc chấp nhận giáo huấn
này?
c) Các phương pháp tự nhiên nào được các Giáo Hội đặc thù cổ vũ giúp các cặp
vợ chồng áp dụng được giáo huấn của Humanae Vitae?
d) Kinh nghiệm của qúy vị ra sao về chủ đề này trong việc thực hành bí tích
hoà giải và tham dự Bí Tích Thánh Thể?
e) Về vấn đề này, người ta thấy những dị biệt nào giữa giáo huấn của Giáo Hội
và nền giáo dục dân sự?
f) Làm thế nào để cổ vũ một thái độ cởi mở hơn đối với việc có con cái? Làm
thế nào để cổ vũ việc gia tăng sinh sản?
8. Liên hệ giữa gia đình và con người
a) Chúa Giêsu Kitô vốn mạc khải mầu nhiệm và ơn gọi của con người nhân bản.
Làm thế nào để gia đình có thể là nơi lợi thế để mầu nhiệm và ơn gọi này diễn
ra?
b) Các tình huống gay cấn nào trong gia đình ngày nay có thể cản trở cuộc gặp
gỡ của con người với Chúa Kitô?
c) Các khủng hoảng đức tin mà người ta có thể trải nghiệm hiện nay ảnh hưởng
đến mức nào tới cuộc sống gia đình?
9. Các thách đố và đề nghị khác
Còn các thách đố và đề nghị nào khác liên quan tới các chủ điểm trong các câu
hỏi trên đây mà qúy vị cho là khẩn trương và hữu ích cần xem sét không?
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét